1. Thường nghe: Văn hiến bốn ngàn năm; Xưng hùng nòi Đại Việt.
2. Sinh trăm con đi gây dựng cơ đồ; Chôn cọc nhọn đánh tan quân cường địch.
3. Bờ cõi ngày ngày rộng mở, từ ải Nam quan đến mũi Cà Mau; Non sông một dãi nối liền, một tấc đất cũng chưa từng bị mất.
4. Dựng nước từ thanh gươm ngọn giáo, địch mạnh quân cường lăm le thôn tính, có sá gì câu da ngựa bọc thây; Giữ nước từ Lạc tướng Lạc hầu, lâm nguy cùng khốn mấy lượt vong nô, vẫn quật khởi trước làn đao mũi kiếm.
5. Từ thuở sóng Bạch Đằng rền vang câu “Sát Thát”, vị quốc vong thân, thanh sử lưu truyền “anh hùng tử khí hùng bất tử”; Cho đến đồn Ngọc Hồi pháo Tết nổ tung trời, áo vải chiến bào, một trận sấm rền “thiên niên mai cốt bất mai danh”.
6. Già trẻ anh hùng chi hữu chí, đề cao chánh nghĩa, bất phục bạo quyền, truyền thống ngàn năm dễ đâu lại cam chịu cúi lòn; Nam nữ hiên ngang vốn linh xưa, yêu nước thương nòi, dòng dõi Trần Lê sao có thể khom lưng uốn gối.
7. Than ôi: “Một cỗ nhung y chiến thắng” bởi vì đâu tan tác chim muông; “Bốn phương biển cả thanh bình” sao bỗng chốc sạch sanh cơ nghiệp?
8. Do có loài cộng sản: Trước ôm chân Mát-xít, Lê-nin; Sau bợ đít họ Mao, họ Tập.
9. Dối trá dân để cướp chính quyền; Lừa gạt chúng cướp luôn tài sản.
10. Biệt thự, vi-la, nhà lầu, phố xá khang trang… thành của cộng; Ổ chuột, mất đất, mất nhà, mất biển, mất nghề sinh sống… là của dân.
11. Tham lam nhũng nhiễu kể không xiết, tiếng oán vang dậy ngút trời; Trai gái trẻ già chống lại phải vô tù, nhà tù lớn hơn trường học.
12. Chỉ thẳng mặt gọi tên trùm băng đảng: Trọng lú, Quang hói, Phúc niểng, Ngân trâu là tứ trụ cầm đầu; Tra lý lịch bọn ăn theo bầy đàn: Mười lăm tên biệt danh “bộ chính trị” cùng bè lũ đảng viên nhung nhúc.
13. Cướp tài sản của dân, đào tài nguyên đem bán, bán rừng, bán biển, bán đất, diện tích quốc gia ngày càng co nhỏ lại…, riêng cộng nô chúng đẫy túi tham; Bỏ tù nông dân, công nhân, trí thức, linh mục, nhà sư, người già, trẻ con…, phường bán nước chúng ôm quyền lực.
14. Bởi cộng sản lòng đen như mực, đem quốc gia bán rẻ cho Tàu; Vì Mác-Lê chối bỏ cội nguồn, xây đền tượng thờ ngoại bang xứ tuyết.
15. Đạo đức bỗng là của hiếm, thầy trò đánh nhau lẫn lộn, lòng tốt trở thành lạc lỏng, rõ ra xã hội văn hóa suy đồi; Sưu cao thuế nặng chất chồng, thu cả thóc giống giường nằm, cướp tiền cứu trợ thiên tai, đúng là ăn cả lai quần đít nhọ.
16. Rừng vàng biển bạc từ đây biến mất, cá tôm chết sạch, độc chất tràn lan giết dân lành, lũ lụt ngập tràn do nhân họa; Đất nước lẹt đẹt chạy theo sau đít Cam Lào, thất nghiệp đói ăn, xếp hàng dài “xuất khẩu” đĩ với cu li, nước Việt Nam “vang danh thiên hạ”.
17. “Dối trời lừa dân đủ muôn ngàn kế”, lời tiền nhân chỉ đúng giặc không sai; “Gây thù kết oán trải mấy mươi năm”, đủ để khiến cho lòng người sôi sục.
18. Chẳng tự biết cộng sản là thảm họa, gây đau thương dân tộc trăm chiều; Không xét mình là kẻ thù nhân dân, ai phê phán vu cho “phản động”.
19. Như nước Việt vốn con Hồng cháu Lạc, ngàn năm câu “Kiến nghĩa bất vi…”, lẽ đâu nay vì cộng nô đàn áp trở nên hèn; Dòng Văn Lang hữu hào kiệt truyền đời, gương chính khí “Lâm nguy bất cứu…”, lý nào giờ khiếp bạo lực phải khom lưng uốn gối.
20. Bao phen khốn cùng nguy biến, lên bờ xuống ruộng, đọa đày bấy nhiêu đã quá đủ đầy rồi; Lắm lần tan cửa nát nhà, ăn bờ ngủ bụi, khổ đau tột cùng đến tràn ly căm giận.
21. Ngân khố bị quan tham hút cho trống rỗng, chúng tính toan cướp vàng dân để bù vô; Tài chính nay lạm phát chống đỡ vô phương, chúng âm mưu cướp thêm đô in thêm bạc.
22. Rước giặc vô nhà ngồi cao chễm chệ trong Quốc Hội, cúi đầu nghe giặc chỉ đạo họp hành; Rập đầu quay mặt xưng thần khúm núm về phương Bắc, bịt tai giả điếc ra lệnh giết dân.
23. Thời mạt vận giáo dục thành dâm dục, cô giáo xinh tươi kiêm cả “nghiệp” bia ôm; Thế loạn lạc đứa dốt được làm to, bộ trưởng dạy chữ có thêm “nghề” nói ngọng.
24. Căm phẫn thay bầy đàn cộng sản, đàn áp dân bằng thủ đoạn đê hèn; Nhục nhã thay bè đảng cầm quyền, buôn bán nước muôn đời nhơ không rửa.
25. Miệng lằn lưỡi mối diễn vai kịch thương dân, thật ra lòng ác độc hơn lang sói, đáng bị phanh thây;
26. Khẩu Phật tâm xà bày vở tuồng yêu nước, thực chất bụng dâng hiến nước cho Tàu, xứng đem xử trảm.
27. Miền Nam đồng khô cỏ cháy, hạn hán mất mùa, đất đai cằn cỗi, sản vật thiên nhiên ngày càng vắng bóng, bởi do khiếp nhược với lân bang; Miền Trung rừng già cạn kiệt, lũ lụt tràn trề, môi trường ô nhiễm, ngư dân mất nghề tha phương cầu thực, vì chưng rước giặc dữ vào nhà.
28. Thật là tội ác trời không dung đất không tha, chỉ mong lúc đạp chết lũ súc sinh; Cho hay oan nghiệt trẻ bất phục già bất bình, cầu có dịp đánh tan phường cộng sản.
29. Oán đã kết chồng cao như non Thái, “bọn gian tà còn bán nước cầu vinh”; Thù đã khơi đào sâu tợ biển Đông, quân cường bạo lại coi dân như giặc.
30. Tội ác đã phơi bày ra mọi lẽ; Vung gươm lên cứu lấy nước non nhà.
32. Tiếng gà gáy vang lừng như sấm động, tín hiệu mừng năm mới đã bước qua; Ánh bình minh sáng chói tựa lửa thiêng, điềm báo tử cho cơ đồ bạo chúa.
33. Chuẩn bị tinh thần quyết tử; Trang bị ý chí quật cường.
34. Tay vung lên tiêu diệt lũ cường quyền; Chân xốc tới đạp bằng loài bán nước.
35. Một trận này cũng là trận cuối, vì tương lai cho con trẻ về sau; Đời người chỉ chết có một lần, nếu có chết phải lưu danh thiên cổ.
36. Hỡi những kẻ nạn nhân cộng sản, hãy cùng nhau cho kẻ thù xuống mồ sâu.
37. Sắm sẳn đủ đồ nghề: Gươm bén, giáo dài, gậy gộc, gạch đá, vỏ chai… có gì dùng nấy.
38. Đừng để chúng phi tang tội chứng, rồi bầy đàn sống sung sướng trời Tây; Chớ để cho giặc cộng thỏa lòng tham, kéo bè lũ đi ngông nghênh khắp chốn.
39. “Người ta lớn bởi vì ta cúi xuống”, cớ sao ta cứ mãi chịu sống quỳ; Đứng dậy đi tiêu diệt lũ bạo tàn, rửa nhục nhã phải chính bằng xương máu.
40. Xa gần bá cáo, quật khởi lên đi hỡi nòi giống Tiên Rồng.
Mùng 4 Tết Đinh Dậu
Tạ Phong Tần
-:-:-:-:-
Cổ văn: “Kiến nghĩa bất vi vô dõng dã/ Lâm nguy bất cứu mạt anh hùng”